Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

Khủng Hoảng Xã Hội Do Hội Chứng Phát Dục Sớm

Theo pháp luật thì đến 18 tuổi một người được công nhận là trưởng thành. Nhưng trưởng thành là trưởng thành cái gì?

Trước hết, người này phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trên phương diện pháp lý, không còn đổ thừa cho ai được nữa. Pháp luật cho rằng ở tuổi này con người đã đầy đủ nhận thức về đúng và sai, thiện và ác, nên việc làm điều gì vi phạm pháp luật là do cố tình chứ không phải do thiếu hiểu biết. Vì vậy, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm pháp lý đối với mọi hành vi sai trái của mình. Pháp luật thì cho như vậy, nhưng thực tế thì con người còn bị chi phối nhiều yếu tố khác nữa như hoàn cảnh gia đình, điều kiện hấp thu giáo dục, thể chất bẩm sinh, ảnh hưởng những người tốt hoặc xấu không lường trước được, ảnh hưởng các tác phẩm vân hóa, ảnh hưởng của môi trường sống vân vân… Những yếu tố đó khiến sự nhận thức con người về tính đúng sai thiện ác không hoàn toàn giống nhau ở tất cả mọi người. Nhưng Luật pháp thì không thể có điều kiện phân biệt riêng từng người nên đành phải quy định chung, theo đánh giá trung bình.

Trưởng thành cũng có nghĩa là khả năng thể chất đã đầy đủ để lao động nuôi sống bản thân và gia đình, thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ đất nước. Người 18 tuổi thì không được quyền nói là làm việc này không nổi, việc kia không nổi khi mà đã có người khác làm nổi. Tuy nhiên thực tế thì có những người mới 14 tuổi đã bẻ gãy sừng trâu, còn những người khác 25 mà vẫn đuổi ruồi không bay…

Trưởng thành cũng có nghĩa là theo pháp luật, người này đủ sức hấp thu các chất kích thích độc hại như rượu bia mà không bị tác hại đáng kể (!). Luật pháp nhiều nước cấm bán rượu bia cho người chưa đủ 18 tuổi, cấm bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi. Như vậy, theo pháp luật, từ 18 tuổi người ta có thể uống rượu bia, hút thuốc lá không sao. Thật ra thì mấy tuổi uống rượu bia và hút thuốc cũng chết cả. Nhưng pháp luật nói thế thì ta không dám cãi…
Trưởng thành cũng có nghĩa là bắt đầu có khả năng sinh hoạt tính dục mà không bị ảnh hưởng sức khỏe (!). Luật pháp cũng quy định cấm lập gia đình trước 18 tuổi, có nghĩa là từ 18 tuổi có khả năng gánh vác gia đình (trời ạ!) và sinh hoạt tính dục. Nhiều bộ phim có những cảnh “nóng” cũng ghi rõ cấm trẻ em dưới 18 tuổi/18+.

Tuy nhiên, vì nhiều cách nào đó, trẻ em bây giờ bị hội chứng phát dục sớm, và gây rắc rối cho gia đình xã hội rất đáng kể. Khi một đứa trẻ phát dục sớm, trẻ bắt đầu xuất hiện tính khí ngang tàng bướng bỉnh đối với gia đình cha mẹ làm cha mẹ lo buồn không ít. Chúng dành nhiều thời gian và sức khỏe để khám phá chuyện tính dục hơn là học hành và giúp gia đình. Chúng tìm đến những đứa bạn cùng chung “chí hướng” để bàn bạc, thử nghiệm, mưu tính, trao đổi, và quậy đủ trò phiền toái. Thường thì cha mẹ không thể kiểm soát được chuyện này, và khi biết được thì con mình đã thành “quỷ sứ” tự bao giờ.

Thông thường hội chứng phát dục sớm do trẻ bị bạn bè đầu độc. Vài đứa bạn biết chuyện này đã lên mặt dạy đời những đứa khác khiến chúng bị lây lan sự kích thích. Chúng nhìn người khác phái không còn vô tư nữa mà luôn bị gắn với ý nghĩ về tính dục. Từ sự tò mò đến kích thích đến phát dục đến hành động chẳng cách bao xa. Khi trẻ bước vào hành động là chúng đã “vi phạm pháp luật”, vì chưa đủ tuổi trưởng thành, thể chất chưa sẵn sàng, chưa đủ tinh thần trách nhiệm đối với hậu quả của hành vi tính dục.

Nhiều trẻ phải nạo phá thai, nhiều trẻ phải sinh con sớm, nhiều trẻ phải bỏ nhà ra đi vì lỡ lầm… Hầu hết những ai đã trải qua hoạt động tính dục sớm thì khó tìm thấy hạnh phúc toàn vẹn trong gia đình sau này. Hạnh phúc gia đình bị giảm bớt khi trước đó người ta bị hội chứng phát dục sớm.

Trẻ bị hội chứng phát dục sớm thì sau này cũng dễ phạm tội về tình dục nhiều hơn. Nếu tính trung bình trên toàn xã hội thì nếu con số trẻ bị hội chứng phát dục sớm chiếm số đông thì xã hội đó bị khủng hoảng về nhiều phương diện như đạo đức, giáo dục, hạnh phúc gia đình, tỉ lệ tội phạm, tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội vân vân...

Trên báo chí thỉnh thoảng ta bắt gặp những scandal tình ái từ những quan chức lớn. Một vị có địa vị trong xã hội thì không được lăng nhăng tình ái. Người khác thì không sao (!). Tại sao người bình thường thì không sao, thậm chí có người còn khoe khoang thành tích bồ bịch lăng nhăng của mình như là một bản lĩnh đặc biệt? Bởi vì người ta xem tính dục là bình thường, yêu đương là chuyện phổ quát, trải qua vài ba (chục) mối tình là dĩ nhiên. Thế nhưng tại sao một người có quyền chức thì không được phép? Bởi vì rõ ràng người ta cũng xem tình dục là chuyện xấu xa (!!!). Ai lăng nhăng tình ái là vô đạo đức nên không xứng đáng giữ vị trí quyền lực cao của xã hội nữa. Cả hai quan niệm trái ngược nhau như thế đều là của “mọi người”. Vậy thì quan niệm nào là thật sự đúng? Phóng túng là đúng hay Kiềm chế là đúng?

Nếu kiềm chế là đúng thì tại sao phim ảnh, tiểu thuyết, văn chương, mạng internet đều thi nhau trình bày diễn tả tính dục công khai và được cấp phép đàng hoàng? Nếu phóng túng là đúng thì tại sao các vị “người của công chúng” không được phép sống bừa bãi?


Trong con người tồn tại cả hai khuynh hướng. Một khuynh hướng theo bản năng của cơ thể là muốn thỏa mãn tính dục. Một khuynh hướng ngược lại là phải kềm chế tính dục để giữ ổn định gia đình, xã hội, luân thường đạo lý, sức khỏe, trí tuệ, (và tâm linh, nếu bạn tu tập theo vài tôn giáo nào đó như PG chẳng hạn). Nếu khuynh hướng thỏa mãn bản năng tính dục thắng thế thì người này sống rất gần với các giống loài khác, tìm và thay đổi bạn tình thường xuyên, không quan tâm đến hậu quả của tình dục, gây xáo trộn cuộc sống của gia đình và xã hội, và thường là gây đau khổ cho nhiều người.

Nếu khuynh hướng kềm chế tính dục thắng thế thì người này sống có lý trí hơn, góp phần giữ ổn định gia đình và xã hội hơn, và bản thân mình thì dễ thăng tiến trên nhiều phương diện khác nữa. Chính vì ưu diểm của khuynh hướng kiềm chế là như thế nên Luật pháp phải quy định tuổi cho phép lập gia đình, ngầm khuyến khích tránh việc phát dục sớm; nhiều vị thánh triết cũng rao giảng sự trong sạch với những phần thưởng cao quý khác đền bù trở lại. Xã hội chắc chắn cũng được yên vui hơn khi mà rất đông người đi theo khuynh hướng kiềm chế tính dục như thế.


Nhưng hầu như xã hội và luật pháp không đưa ra được biện pháp nào để trợ giúp cho khuynh hướng Kềm chế tính dục được thắng thế. Quảng cáo hở hang đập vào mắt trẻ em hằng ngày vẫn tràn ngập đường phố. Phim ảnh vẫn có nhiều cảnh nóng cho trẻ em xem. Tiểu thuyết truyện tranh đồi trụy vẫn tràn lan bày bán. Game kích dục vẫn phát tán dữ dội. Các trang web đồi trụy vẫn hoạt động ì xèo. Một số ca sĩ ngôi sao trình diễn ca khúc kiểu gợi dục cho các fan trẻ em của mình. Trẻ em vẫn tiếp thu dễ dàng các thông tin kích dục vào tâm hồn mình, và hội chứng phát dục sớm là chuyện bắt buộc phải xảy ra. Nếu những nhà có trách nhiệm với xã hội như các vị lãnh đạo quốc gia, các nhà lãnh đạo văn hóa quốc gia, các nhà giáo dục, các nhà sản xuất các tác phẩm văn hóa, ý thức được rằng trẻ em và tất cả mọi người cần phải được truyền vào tâm hồn mình khuynh hướng kiềm chế tính dục để giúp điều chỉnh hành vi cư xử, để góp phần ổn định xã hội, thì những “nhà” đó phải quyết liệt tạo nên một cuộc cải cách thông tin văn hóa.

Các thông tin văn hóa đến với mọi người phải là thông tin kềm chế tính dục. Nghiêm cấm các thông tin có tính kích dục. Nơi nào xuất hiện các thông tin có tính kích dục thì quan chức ở khu vực đó phải chịu kỷ luật gắt gao.
 
 
Trẻ em tiếp xúc với mạng Internet quá sớm cũng là một trong những nguyên nhân.

Thường thì các tác phẩm có tính gợi dục sẽ dễ được đón nhận, mua nhiều, lợi nhuận cao. Nó cũng không khác gì với việc mua bán các sản phẩm độc hại khác, lợi nhuận cao và phá hoại xã hội. Nhà nước cũng không thể kiểm soát hết. Ta chỉ còn biết trông chờ vào lương tâm của những người làm công tác văn hóa, và tinh thần trách nhiệm của các bậc cha mẹ. Ta kêu gọi những ai làm công tác văn hóa phải nghĩ đến vai trò cao quý của mình là giúp xây dựng đạo đức xã hội, chứ không phải đi tìm lợi nhuận cao. Ta cũng kêu gọi các bậc cha mẹ cũng phải có tinh thần trách nhiệm cao trong việc bảo vệ con em mình thoát khỏi những thông tin độc hại gây phát dục sớm, bằng cách có hành động mạnh mẽ tấn công vào những nguồn thông tin kích dục như thế. Đừng làm ngơ để cho các thông tin kích dục tàn phá tâm hồn và đạo đức của con em mình. Ta phải xem những kẻ tạo ra thông tin kích dục là tội phạm văn hóa, tội phạm tâm hồn, tội phạm xã hội, và nên truy tìm chúng để trị tội. Mỗi người kiên quyết thêm một chút thì con cháu ta sẽ được nhiều lợi ích hơn.

Ngoài ra ta nên tìm cách phổ biến những tấm gương biết Kềm chế tính dục, phổ biến những phương pháp kiềm chế tính dục, phổ biến những ưu điểm của việc kềm chế tính dục. Nhân vật anh hùng trong một bộ phim sẽ có những thái độ kềm chế tính dục, sẽ khiến cho trẻ xem đó là khuôn mẫu để sống. Những ngôi sao nghệ thuật sẽ nói nhiều về việc sống đàng hoàng nghiêm túc. Việc giáo dục giới tính phải đưa đến kết quả là kiềm chế tính dục, chứ không phải chỉ vẽ cách sinh hoạt tính dục. Ngay cả những người đã trưởng thành, đã có gia đình, cũng vẫn rất cần phát triển khuynh hướng kiềm chế tính dục để giúp gia đình ổn định, đạo đức thăng tiến, sức khỏe tốt lành, (và tâm linh tiến bộ).

Trong các bữa ăn gia đình, cha mẹ nên nói với các con về khuynh hướng kềm chế tính dục, ca ngợi về việc kềm chế tính dục, sẽ hóa giải rất nhều ảnh hưởng xấu từ bạn bè bên ngoài. Các bạn trẻ có lý tưởng sống cao đẹp nên tuyên truyền khuynh hướng kềm chế tính dục cho các bạn mình bằng nhiều lý luận thông minh. Thầy cô giáo nên tranh thủ nhắc nhở học sinh về khuynh hướng kềm chế tính dục, sẽ giúp ngăn chận bớt ảnh hưởng của các nguồn thông tin độc hại mà các em âm thầm “khảo cứu”.

Bây giờ ta không thể lảng tránh chuyện tính dục như hồi xưa nữa vì trẻ đã biết quá nhiều. Ta phải nói thẳng, và phải nói sao cho khuynh hướng kềm chế tính dục được lớn mạnh trong tâm hồn các em.
 
Thiền định là một trong những phương pháp kềm chế và diệt trừ ái dục tốt nhất...
 
 
Ta cũng sẽ đến chùa tham vấn các vị tu sĩ có kinh nghiệm giữ gìn giới cấm, biết diệt dục tu hành. Ta sẽ học hỏi được cách kềm chế tính dục bởi ý chí kiên quyết, bởi trí tuệ nhận thức bản chất của dục, bởi kỹ năng thiền định nhiếp tâm giúp vượt qua bản năng tính dục sâu xa. Phật giáo luôn luôn có nhiều phương pháp hay trong việc diệt trừ ái dục.

Xin nguyện cầu cho xã hội an vui hạnh phúc.
Việt Quang

Chữa trị ung thư - Trị bệnh theo phương pháp của Phật Giáo

Ung thư được định nghĩa như là sự tăng sinh tế bào vô tổ chức, tiết ra chất làm đau, lấn ép sự sống của chủ thể, cuối cùng khiến cho chủ thể chết trong đau đớn. Thật ra ung thư có nhiều loại, ung thư máu, ung thư các tạng phủ, ung thư xương, ung thư mô… Các loại ung thư có thể di chuyển qua lại, biến thể lẫn lộn, loại này biến thành loại kia, làm phát sinh loại kia. Ung thư phổi có thể thành ung thư gan, ung thư máu có thể thành ung thư xương vân vân…

Ung thư là một trong tứ chứng nan y đời xưa, Phong Lao Cổ Lại, và tiếp tục là bệnh nan y của đời nay mặc dù y học rất tiến bộ. Ngày nay tốc độc phát bệnh ung thư lên đến chóng mặt. Bệnh viện ung bướu tiếp nhận bệnh tràn ngập. Bệnh nhân nằm khắp nơi la liệt vật vã.

Một người vợ bị ung thư, người chồng bán sạch các thứ để chữa trị. Đứa con gái thương mẹ lén lấy giấy chủ quyền nhà chồng cầm cố, đến khi nhà bị phát mãi chồng mới biết và lập tức li dị. Cả nhà nằm vật vờ đói khổ trong bệnh viện, vừa mong được chữa trị, vừa ăn xin.

Một bác sĩ có kinh nghiệm chữa trị ung thư suốt 25 năm đã nói rằng, nếu vướng bệnh ung thư, ông sẽ về nhà nằm chờ chết chứ không uống thuốc của bệnh viện, mặc dù ông là người kê đơn thuốc cho bệnh nhân ung thư hằng ngày. Lý do ông đưa ra là hầu hết bệnh viện chỉ cấp thuốc giảm đau, mà thuốc giảm đau thì khiến cho bệnh phát triển mạnh hơn. Còn thuốc trị ung thư thì làm hư xương khiến cho ung thư lập tức tràn vào xương thành ung thư xương liền. Ông cũng bảo rất nhiều người xin ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chẳng nơi nào giỏi hơn nơi nào trong việc chữa bệnh ung thư. Thuốc nào bên Mỹ có thì VN cũng có cả. Bệnh nhân sang Quảng đông TQ, hoặc sang Singapore rồi cũng chết y hệt như bệnh nhân ở VN.

Ông cũng nói bệnh ung thư là bệnh cực kỳ khó hiểu. Có khi người bệnh đang đi đứng bình thường, bỗng lăn đùng ra chết. Có khi bệnh bỗng nhiên khỏi. Có khi nằm bao nhiêu năm vẫn chưa chết.

Thường thì một người bệnh sẽ kéo theo cả nhà rơi vào nguy khốn đói khổ vì bao nhiêu tiền đổ vào chữa bệnh cũng chẳng ăn thua. Người bệnh càng ham sống thì càng giết chết cả nhà.

Thời đại hôm nay được cho là môi trường bị nhiễm độc nặng nên bệnh ung thư phát sinh rất mạnh. Những thức ăn uống đầy hóa chất (được cho phép trong định mức) đều là thủ phạm gây ung thư. Nguồn không khí bẩn thỉu cũng là nguyên nhân ung thư. Dòng sông nhiễm đầy thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ung thư. Thực phẩm có nguồn gốc động vật nhiễm đầy độc tố cũng gây ung thư. Thực phẩm lấy từ thực vật cũng thấm đầy độc tố, và cũng gây ung thư. Phóng xạ cường độ cao cũng gây ung thư…

Bây giờ ta nhìn bệnh ung thư qua nhãn quan tâm linh một chút để thấy thêm một khía cạnh thú vị của loại bệnh hiểm ác này. Không riêng gì bệnh ung thư, rất nhiều bệnh có nguồn gốc tâm linh, mà tâm linh thì bị gán cho là phản khoa học, là mê tín, không được quan tâm xử lý.

Ví dụ bệnh tự kỷ Autism của trẻ em. Trẻ bị bệnh tự kỷ không nói, hoặc nói rất ít. Trẻ khép mình trong thế giới riêng của mình, không để ý mọi người bên ngoài. Đôi khi trẻ được gán cho là thiên tài vì có thể làm những bài toán khó hoặc biết nhiều chuyện lạ lùng.

Nguyên nhân bệnh tự kỷ là do khi trẻ còn nằm nôi, chưa biết nói, vùng não ngôn ngữ chưa kịp phát triển do chưa đủ thời gian tiếp xúc với con người, trẻ đã bị vài vong tiếp cận trước. Các vong này xâm nhập rất sâu vào nội tâm của trẻ, chơi đùa với trẻ, tiếp xúc với trẻ bằng ngôn ngữ tâm linh trực tiếp, không qua ngôn từ. Trẻ bị dẫn dụ bởi sự tiếp xúc này, tiếp nhận loại ngôn ngữ này, não chỉ đón nhận loại ngôn ngữ tâm linh này, rồi bộ não của trẻ không còn phát triển vùng ngôn ngữ của con người được nữa. Đến khi tuổi lớn lên một chút, não hết thời gian để phát triển, và vĩnh viễn vùng ngôn ngữ bị tê liệt luôn. Trẻ sẽ tiếp tục sống mà không nói gì vì không hiểu người chung quanh nói gì, vì có muốn nói cũng không biết nói. Trẻ có thể tiếp tục bị các vong bao vây chơi đùa, nên trẻ nhìn vào ta thấy trẻ cứ như chơi đùa một mình, nhưng thật ra là đang chơi với vong.

Nếu đó là các vong giỏi, vong sẽ cho trẻ biết nhiều chuyện mà trẻ không thể biết, người chung quanh khó thể biết. Trẻ đưa ra kết quả do vong mách, mọi người hết sức khâm phục và gán cho trẻ là thiên tài. Nếu vong rời bỏ ra đi, đứa trẻ ở lại sẽ ngớ ngẩn cả đời vì không còn ai để tiếp xúc, và cũng không hiểu những người đang sống bên cạnh mình.
Nếu vong bỏ đi sớm, trẻ còn thời gian để phát triển vùng não ngôn ngữ thì trẻ sẽ nói được bập bẹ sau một thời gian bắt đầu quay sang tiếp xúc với người sống. Nếu vong bám theo riết thì trẻ hoàn toàn im lặng cách biệt với thế giới loài người.


Vì vậy, khi trẻ vừa chào đời, cha mẹ phải hết sức bảo vệ không cho các vong đến gần trẻ, xâm nhập vào nội tâm của trẻ. Cha mẹ mà buông lỏng, ít kề cận bảo vệ, không cầu nguyện thần thánh gia hộ, trẻ sẽ dễ bị vong quấy phá hoặc xâm nhập nội tâm gây bệnh tự kỷ. Khi con trẻ vừa sinh ra, cha mẹ phải đem đến chùa xin cầu phúc cho trẻ, nhờ Bồ Tát thủ hộ giữ gìn cho trẻ để các vong đừng gây tác hại cho trẻ. Lâu lâu lại phải mang trẻ đến cầu nguyện trở lại. Nếu tại nhà có bàn thờ Phật thì mỗi ngày phải lễ Phật tụng kinh cầu nguyện bình an cho trẻ.

Bệnh tự kỷ Autism có yếu tố tâm linh khó hiểu là thế.
Bệnh ung thư cũng vậy, cũng có yêu tố tâm linh.

Chung quanh ta có rất nhiều vong của chúng sinh, có vong của loài người, có vong của loài thú, thậm chí có vong của các loài động vật nhỏ bé. Các vong đó luôn khát khao tìm sự sống, tìm miếng ăn, tìm sự tồn tại.

Để có được sự sống, các vong đó hay tìm cách sống ký sinh vào chủ thể còn sống như con người và một số cầm thú khác. Không phải lúc nào các vong đó cũng ký sinh được, gắn vong của mình vào người sống được. Chỉ một số người bị Nghiệp phải trả, xuất hiện một vùng yếu ớt thiếu sức bảo vệ, lập tức các vong bám vào sống ký sinh.

Kể từ khi bám vào sống ký sinh được rồi, các vong bây giờ giống như có một phần thân thể của người bệnh, lấy một phần thân thể của người bệnh làm thân thể của mình. Nếu các vong đó yếu ớt thì bám vật vờ rồi bị thân thể của con người gạt ra. Nếu các vong đó là loại mạnh thì chúng cạnh tranh sự sống với chủ thể, chúng khiến mô tế bào phát sinh hỗn loạn.

Thông thường thì không phải một u bướu ung thư chỉ có một vong, mà thật sự là nhiều vong bám theo nhung nhúc như đám giòi bọ vậy, trông rất khiếp.

Ta dùng hóa trị hoặc xạ tri để diệt tế bào ung thư nhưng không đuổi được các vong đó ra khỏi cơ thể, chúng lập tức chuyển qua mô khác để chiếm lấy sự sống của con người tiếp tục, và ta gọi là Di Căn. Một số nhà ngoại cảm có khả năng nhìn thấy hình thù các vong của các loài chúng sinh đó bám vào khối u, dính trong khối u, nhầy nhụa lúc nhúc ghê gớm.

Trong truyện tích đạo Phật có ghi chép một sự kiện u bướu kỳ lạ. Ngài Ngộ Đạt bị u hình mặt người, đút thịt vào biết ăn luôn. Sau này mới vỡ ra rằng đó là vong của một người thù oán ngày xưa nhập vào đầu gối sống ký sinh để trả thù, tạo thành khối u kỳ quái khủng khiếp. Đó là trường hợp ung thư do vong một con người bám vào. Những trường hợp khác là do vong của nhiều chúng sinh bé bé bám vào xâu xé giành giật.

Vì ung thư là bệnh có tính tâm linh rất cao nên thuốc thang không hết, mà phải do sám hối tu hành làm thiện mới hóa giải được. Ai ỷ giàu đổ tiền ra chữa bệnh khắp thế giới cũng chết. Chỉ có sám hối thiết tha những nghiệp chướng ngày xưa, cộng với đem tiền cúng chùa, bố thí người nghèo, làm các việc nghĩa, thì mới hóa giải được nghiệp mà hết bệnh ung thư. Khi người bệnh đã sám hối đủ, cơ thể toát ra một kháng lực xua đuổi các vong ký sinh ra khỏi cơ thể khiến cho khối u ngưng phát triển, trở lại ổn định theo gene của con người sắp xếp.

Đã đó rất nhiều người đau khổ vì ung thư, nhưng khi nghe lời khuyên của Tăng Ni, về nhà chuyên cần lạy Phật sám hối, vậy mà bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, sống vui khỏe trở lại.

Ta nên đặt tay vào khối u mà tụng kinh hoặc trì chú của PHật, nói chuyện với khối u, khuyên khối u quy y Phật PHáp Tăng, rải lòng từ bi với khối u, cầu cho khối u siêu thoát. Vậy mà khối u sẽ dần dần biến mất. Nếu là ung thu máu, ung thư xương, ung thư phổi, ung thư gan… thì ta cứ lạy Phật sám hối mãi, cũng sẽ hết. Ta chỉ nên hỗ trợ bằng thuốc thảo mộc mà thôi, đừng dùng hóa dược phản ứng phụ nguy hiểm hơn.

Người bệnh ung thư nên ăn chay để không chiêu oán thù với chúng sinh thêm nữa. Người này cũng nên đem cả cuộc đời còn lại của mình mà phụng sự cho mọi người, cho đất nước, cho thế giới, vì xem như mình đã chết rồi, bây giờ cuộc sống thêm này là của trời đất, không phải của mình nữa.

Xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sinh tiêu tai kiết tường và giác ngộ.

Việt Quang